Kìa em xiêm áo từ bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy. Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Có nhớ dáng người trên độc mộc. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa 3.1: đọc 4 câu thơ đầu trong đoạn và cho biết: Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn tên mùi đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy. Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Bài viết: 44. ĐỀ BÀI: Cảm nhận khổ thơ sau. Từ đó nhận xét bút pháp lãng mạn của tác: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy. Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy. Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Có nhớ dáng người trên độc mộc. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr. 88-89) . Mượn lời của cố nhà thơ Quang Dũng trong bài “Tây Tiến” để bắt đầu cho bài viết về các ngôi sao Việt và cuộc chạy đua hàng hiệu, xem chừng hơi “bấp bênh”. Cái sự “bấp bênh” đó nó cũng đúng với chính bản chất của cuộc chạy đua này Đẳng cấp thực sự của một ngôi sao không đến từ những thứ “che đậy” ở bề mặt. Hàng hiệu đến mấy cũng chỉ là thứ ngoại thân, cái bạn có mới là giá trị thực. Nước ao và nước giếng Khi một ca sỹ tuyên bố LV có thứ gì, tôi có thứ đó, không một ai mảy may nghi ngờ về tính xác thực của tuyên bố đó bởi ai cũng biết anh chàng ca sĩ này dư sức mua sắm những thứ đó. Nhưng, đằng sau tuyên bố đó, có mấy người nói rằng ca sỹ đó thật sang trọng !? hay chỉ là những xuýt xoa ca sỹ này thật giàu có. Đồ rằng, vế sau sẽ được sử dụng nhiều hơn là vế trước. Sến và Sang thì chẳng bao giờ gặp được nhau dù rằng nó cùng được bắt đầu bằng chữ S. Nói đến đây mới nhớ đến câu nói xưa rằng Trưởng giả học làm sang. Có tiền, đành rằng bạn có quyền để “đắp” lên mình mọi thứ, cho dù nó “hiệu” đến như thế nào đi chăng nữa. Nhưng, cái căn cốt của vấn đề lại không đến từ cái-sự-đắp đó, nó đến từ những cái-sự-được-đậy ở trong. Nói xa nói gần chẳng qua nói thẳng, Sến và Sang thì chẳng bao giờ gặp được nhau dù rằng nó cùng được bắt đầu bằng chữ S. Sến thì có thể học, có thể bắt chước sao cho sụt sùi, cho nức nở nhưng Sang thì tuyệt nhiên không, bởi đó không phải là kĩ năng. Sang thì từ cốt cách tính ra, còn Sến thì là những biểu hiện “bề mặt” thật tiếc cũng lại là từ “bề mặt”. So sánh một cách nông cạn thì là sự khác nhau giữa nước giếng và nước ao. Nước giếng được khoan sâu lòng đất, được đắp bờ bằng đá, được hứng nước mưa tinh khiết và được chắt lọc để có dòng nước mát và chỉ dùng được sau khi đã kéo gầu, tức là có sự vận động để chắt lọc. Còn nước ao, tuy diện tích rộng hơn, khả năng lưu trữ lớn hơn nhưng cũng vì cái gì cũng hơn nên tính “tiện ích” cũng đa dạng hơn, bởi cái gì cũng có thể “nhúng” được xuống ao mà chẳng mất công múc lên, rất tiện. Điều quan trọng nữa là, nước ao được dùng không chỉ với người. Nói đến sự sang, nhắc đến Lê Khanh, Cẩm Vân, Thủy Hương… những gương mặt đẹp của làng văn nghệ Việt chắc ai cũng đồng tình. Ai cũng biết họ, ai cũng thích những vẻ đẹp của họ và ai cũng gật đầu nếu người khác nói họ sang dù rằng, họ chẳng mấy khi xuất hiện với những bộ cánh lộng lẫy kiêu sa, chẳng mang vác theo những chiếc túi từ lớn đến nhỏ đóng mác hàng hiệu. Họ cũng chẳng lên báo nói rằng họ yêu, họ tự tin hơn khi xài đồ hiệu như những ngôi sao đang lên hiện nay nếu có ai thắc mắc Chẳng nhẽ trước khi xài đồ hiệu, các anh/chị không tự tin thì chẳng biết các ngôi sao sẽ trả lời ra sao. Phù phiếm và…? Trong một bài trả lời phỏng vấn gần đây của người mẫu Thủy Hương có tên “Người đàn ông nào đủ cho sự phù phiếm của tôi?”, người đẹp này khẳng định phù phiếm và xa hoa là cái gốc của quý tộc và đó là sự phù phiếm dòng tộc, tự thân những người xuất phát từ cuộc sống vương giả xa hoa đã mang trong mình. Còn khác ra, sự phù phiếm không tự nó có được mà đến từ những quan sát và học đòi, để rồi đến lúc “a dua” không được nữa thì sinh thành “nợ” của những “Labels – Hàng hiệu”. Hàng hiệu nếu có được dùng đại trà cho số đông, cho hàng loạt, thì cũng khó mà nói được rằng đó là đẳng cấp. Đơn giản thôi, nếu bạn thấy đến 5 nghệ sĩ khoác chung một mẫu túi xách mà không có sự “pha chế một cách thông minh” mang tính cá nhân vào những phụ kiện đắt tiền đó thì cá tính sẽ nhạt nhòa như nhau. Thế nên, một loạt các ngôi sao xếp hàng dài, dùng hàng hiệu nhiều nhiều thì cũng chẳng ai khen cô này cao cấp hơn cô kia. Nhìn ra trời Tây, ngay đến Victoria Beckham, một ngôi sao được cho là phù phiếm đến tận cùng cũng đừng quên Victoria Beckham xuất phát từ gốc quý tộc Anh thì cũng có những lúc họ vẫn xài những đồ… siêu rẻ. Trong một bức hình chụp cảnh Victoria Beckham đi dạo phố, người ta đã “tính toán” tổng số tiền mà nàng Posh Spice chi cho trang sức và phụ kiện chỉ có… 183USD. Cụ thể như sau một chiếc kính Fred Flare giá 8 USD, váy trắng Issac Mizrahi for Target giá 35USD, túi sách Shop Suey Boutique 60USD, giày RVSP 80USD. Đừng nói rằng, vì Victoria Beckham nghèo nên xài đồ rẻ. Cái quan trọng là họ có một “gu” thẩm mĩ để không chỉ hãnh diện với hàng hiệu và tất nhiên, ai cũng thấy “bà Beck” vẫn sang trọng. Văn hóa hàng hiệu Chính bởi thế, văn hóa hàng hiệu là một cụm từ được dùng đến nhiều trong thời gian gần đây để chỉ về phương cách mà các ngôi sao đang xài hàng hiệu ngày một nhiều trong mỗi lần xuất hiện trước đám đông. Một cô ca sĩ như TT đi làm từ thiện cũng vác theo cái túi LV. Người đẹp CTQ đi thi Hoa hậu Liên lục địa cũng khoác chiếc túi LV giữa một hàng các người đẹp… tay không. Một ca sĩ hàng đầu như ĐVH lên sân khấu cũng phải hàng hiệu từ đầu đến chân, không chừa chỗ nào. Với họ, từ “tinh tế” dường như là một sự “xa xỉ”. Bởi, nếu họ có điều đó, thì chỉ cần một chiếc khăn tay hàng hiệu nhỏ nhắn, xinh xắn được buộc nhẹ nhàng, hờ hững vào một chiếc túi xách cũng đủ để người sành điệu biết rằng, cô đó/ anh đó thật thời trang và tinh tế. Thế nên mới nói, sao Việt giờ cứ hễ có cơ hội xuất hiện là trưng hàng hiệu, dù rằng sự xuất hiện đó chẳng cần thiết phải chứng tỏ một điều gì hết về đẳng cấp của mình. Nếu có nói nhiều ngôi sao Việt đang chạy theo một cuộc đua dùng hàng hiệu để chứng tỏ đẳng cấp và thể hiện “sự có tiền” của mình, cũng không sai. Cuộc chạy đua đó chắc chắn sẽ tốn rất nhiều tiền nhưng hiệu quả đong đếm được là bao nhiêu lại sang một câu chuyện khác. Cũng chẳng thể vì những thứ bạn khoác lên mình mà hình ảnh của bạn trong mắt người khác “tăng” thêm vài “chân kính”. Cái quan trọng là cách bạn chọn để xuất hiện như thế nào và đâu là điểm nhấn để bạn trở thành tâm điểm của một bữa tiệc mà nhìn trước nhìn sau thấy đâu đâu cũng “đụng hàng”. Hàng hiệu là niềm mơ ước của nhiều người, nhưng cách dùng như thế nào để người khác phải ngoái đầu lại nhìn thì là một chuyện khác. Cái đó, đòi hỏi nhiều hơn là một hầu bao rủng rỉnh mà nó còn là cả một “nền tảng”. Nền tảng đó có thể là “gu” thẩm mĩ có sẵn hoặc được hình thành và bồi đắp qua cuộc sống hằng ngày. Đừng quên, kiến thức cũng đóng một vai trò quan trọng trong “nền tảng” đó. Thực tế, nếu bạn để ý sẽ thấy có những ngôi sao ăn mặc chẳng giống ai ngay cả khi họ mang trên mình những thứ giá trị như kim cương. Những điểm sáng hiếm hoi Nói gì thì nói, một ngôi sao nói về hàng hiệu bao giờ cũng có sự đáng tin hơn là một người dân thường nhưng nói được và làm được, làm sao cho đẹp lại không phải là điều dễ dàng để ai nghe cũng gật đầu. Và đó chính là điều không thể phủ nhận về sự ảnh hưởng của một ngôi sao giải trí tới công chúng thông qua những lựa chọn của họ. Hiếm lắm những hình ảnh như Hồ Ngọc Hà xuất hiện tại nước ngoài với trang phục được lựa chọn một cách cầu kì và hợp lí để là tâm điểm của báo giới trong lần dự Liên hoan Âm nhạc Châu Á trong tháng 9/ 2009 vừa qua tại Hàn Quốc. Nhu cầu mua sắm hàng hiệu tại Việt Nam giờ không còn ở lúc “sơ khai” như khi LV khai trương cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam của hơn thập kỉ trước. Những trang báo quảng cáo ngập tràn trên các tạp chí, ấn phẩm ít nhiều cũng đã nói lên nhu cầu mua sắm hàng hiệu của thị trường Việt Nam ngày càng phát triển. Những trang báo quảng cáo ngập tràn trên các tạp chí ấn phẩm ít nhiều cũng đã nói lên nhu cầu mua sắm hàng hiệu của thị trường Việt Nam ngày càng phát triển. Trong đó, vai trò của các ngôi sao đóng góp không nhỏ. Trong đó, vai trò của các ngôi sao đóng góp không nhỏ. Nhưng mấy người tạo được sự tin tưởng trong việc chọn lựa hoặc được các hãng thời trang nước ngoài tin tưởng trong việc “giao phó” việc quảng bá thương hiệu của họ tại Việt Nam như Hồng Nhung với Escada và Đỗ Hải Yến với LV. Không phải ngẫu nhiên họ chọn những gương mặt này để quảng bá những dòng sản phẩm đã quá nổi tiếng trên thế giới khi xâm nhập một thị trường mới. Với những chuyên gia thời trang và kinh tế hàng đầu thì việc lựa chọn gương mặt đại diện không chỉ là “thân quen” hoặc “cảm hứng”… Câu chuyện về hàng hiệu và nhu cầu “trưng trổ” ở bất cứ đâu, bất cứ ngành nghề nào cũng có, không chỉ riêng nghệ thuật hay riêng tại Việt Nam. Làm đẹp và thể hiện bản thân là nhu cầu chính đáng, điều đó ai cũng nắm rõ. Nhưng hơn ai hết, những người làm nghệ thuật nên hiểu rằng hình ảnh của họ trong mỗi lần xuất hiện là một dấu ấn. Dấu ấn đó không đến từ việc họ khoác lên người tổng giá trị mấy chục ngàn đô hay đó là bộ cánh mới nhất của thương hiệu A, B, C mà là hình ảnh của họ trong mắt công chúng có “thuận” hay không. Mọi người vẫn nói vui với nhau rằng, người đẹp thì khoác bao tải lên người vẫn đẹp. Điều này có vẻ hơi thậm xưng, nhưng không phải không có căn cứ, bởi nếu một người ý thức được đâu vẻ đẹp của mình thì chuyện “nô lệ” của thời trang lại không phải điều họ quá quan tâm. Thế nên mới có câu Chiếc áo không làm nên thày tu. Bài Nguyễn Hà Học tốt Ngữ văn 12Ngữ văn 12 Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây TiếnNội dung bài thơ Tây TiếnI. Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến1. Dàn ý hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 12. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 23. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 34. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 45. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 56. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 6II Mở bài và Kết bài phân tích Tây TiếMở bài phân tích Tây TiếnKết bài phân tích Tây TiếnIII. Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến"Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những tác phẩm thường có mặt trong các bài thi Ngữ văn 12 và thi THPT Quốc gia môn Văn. Chính vì vậy, các em học sinh cần nắm vững nội dung tác phẩm cũng như những thông tin xoay quanh tác phẩm này như tác giả, tác phẩm, nghệ thuật.... Trong bài viết dưới đây, VnDoc sẽ gửi tới các bạn Dàn ý và một số bài văn mẫu Nêu hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến. Mời các bạn tham khảo chi tiết bài viết dưới đây dung bài thơ Tây TiếnTây TiếnSông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,Heo hút cồn mây, súng ngửi thước lên cao, ngàn thước xuống,Nhà ai Pha Luông mưa xa bạn dãi dầu không bước nữa,Gục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ôi Tây Tiến cơm lên khói,Mai Châu mùa em thơm nếp trại bừng lên hội đuốc hoa,Kìa em xiêm áo tự bao lên man điệu nàng e ấp,Nhạc về Viên Chăn xây hồn đi Châu Mộc chiều sương ấy,Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?Có nhớ dáng người trên độc mộc,Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,Quân xanh màu lá dữ oai trừng gửi mộng qua biên giới,Đêm mơ Hà Nội dáng kiều rác biên cương mồ viễn xứ,Chiến trường đi chẳng tiếc đời bào thay chiếu, anh về đất,Sông Mã gầm lên khúc độc Tiến người đi không hẹn ước,Đường lên thăm thẳm một chia lên Tây Tiến mùa xuân ấy,Hồn về Sầm Nứa chẳng về Lưu Chanh, 1948I. Hoàn cảnh sáng tác Tây Tiến1. Dàn ý hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến2. Thân bài- Hoàn cảnh sáng tác+ Quang Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến-> Viết về Tây Tiến là viết về những trải nghiệm của người lính từng cầm súng chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến.+ Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch -> Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng.+ Cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Chủ đề+ Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc -> Thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến.+ Tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Kết bàiKhái quát đặc sắc bài thơ2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 1Quang Dũng là tác giả tài hoa tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ của Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Quang Dũng tham gia đoàn quân với chức vụ đại đội trưởng. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, thậm chí chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng. Họ mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”.• Chủ đềHình tượng người lính là đề tài quen thuộc trong thơ ca giai đoạn chiến đấu chống Mĩ và chống Pháp đầy cam go. Những sáng tác trong giai đoạn này không chỉ mang đến cho bạn đọc cái nhìn chân thực về những khó khăn thiếu thốn mà họ phải trải qua mà còn ca ngợi tinh thần lạc quan, đoàn kết của đề của bài thơ Tây Tiến bám sát vào hình tượng người lính nêu trên nhưng bằng ngòi bút tài hoa của mình, Quang Dũng mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ hơn, những khía cạnh, vẻ đẹp mới hơn của người lính trong binh đoàn của ông. Qua bài thơ, tác giả còn thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 2Quang Dũng là nhà thơ tài hoa tinh thông nhiều lĩnh vực nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ của ông. Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây- Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Quang Dũng gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh Người lính mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”.• Chủ đềQua bài thơ, tác giả Quang Dũng ca ngợi vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, cũng là vẻ đẹp của những người lính trong kháng chiến chống Pháp. Qua đó còn thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 3Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, sức sáng tạo của ông ghi dấu trên nhiều lĩnh vực như viết văn, làm thơ, vẽ tranh, trong đó nổi bật hơn cả có thể kể đến thơ ca. Giữa rừng thơ ca kháng chiến muôn màu muôn vẻ, hồn thơ Quang Dũng được độc giả đặc biệt ấn tượng với nét phóng khoáng, ngang tàng nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn điển hình cho tâm hồn thanh lịch, hào hoa của những chàng trai Hà thành. Nếu nhắc đến Quang Dũng ta nhớ đến chất ngang tàng, hào hoa thì Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu nhất cho hồn thơ Dũng từng là người lính trong binh đoàn Tây Tiến, bởi vậy có thể nói viết về Tây Tiến Quang Dũng đã đứng ở vị trí của những người lính để ghi lại những trải nghiệm của mình cùng đồng đội trong những ngày kháng chiến gian khổ mà cũng đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ chính là phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới. Lực lượng chính của binh đoàn là tầng lớp thanh niên, học sinh Hà thành, Quang Dũng từng vinh dự được đứng trong hàng ngũ của binh đoàn ấy, trong thời gian công tác và hoạt động trong binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng từng giữ chức Đại đội trưởng. Tuy nhiên, đến cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác, tại Phù Lưu Chanh, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến của giây phút chia li, Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng, những kỉ niệm gắn bó đã có với những người đồng đội, với mảnh đất Tây nét hào hoa, lãng mạn của thanh niên, trí thức Hà Thành, Quang Dũng đã mang đến cho "Tây Tiến" một chất lính đầy mới lạ, cũng đầy xúc động. Đó là những người lính có lí tưởng, luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh, là những chàng thanh niên mang trong mình sức trẻ, tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua Tây Tiến, độc giả đón nhận một hình tượng hoàn toàn mới lạ về người lính trong kháng chiến, đó không chỉ là những con người yêu nước, cháy bỏng một niềm tin, lí tưởng "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" mà còn mang nét hào hoa, lãng mạn của những con người yêu nước, yêu đề, nội dung tư tưởng của bài thơ Tây Tiến phần nào được gửi gắm ngay trong chính nhan đề giàu sức gợi "Tây Tiến". Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ mảnh đất Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà thơ Quang Dũng với đơn vị, đồng đội, mảnh đất kháng chiến mà qua đó còn tái hiện, khắc họa đầy sống động chân dung lí tưởng, tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng không chỉ thành công tái hiện không khí chiến đấu quyết liệt, gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp mà trên cái nền dữ đội, khốc liệt của cuộc chiến ấy, Quang Dũng còn gợi cho người đọc sự xúc động mạnh mẽ về hình ảnh ngang tàng, hào hoa của người lính Tây Tiến Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 4Quang Dũng là một tác giả kĩ năng, thông thuộc nhiều nghành nghề dịch vụ nghệ thuật và thẩm mỹ, nhưng điển hình nổi bật nhất là thơ. Thơ ông bộc lộ cái tôi thanh tao, thanh nhã, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng, tất cả chúng ta không hề quên “ Tây Tiến ” một bài thơ rực rỡ trong đời thơ của ông .Tây Tiến là đơn vị chức năng quân đội được xây dựng năm 1947 với trách nhiệm phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, hoạt động giải trí khắp vùng núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc đến Sầm Nưa về phía Tây. Thanh Hóa. Quang Dũng nhập ngũ với tư cách đại đội trưởng. Thuở ấy, nơi đây còn rất hoang sơ, hiểm trở, núi cao, sông sâu. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến hầu hết là học viên, tri thức từ những trường học, từ đường phố ra chiến đấu trong hoàn cảnh rất là khó khăn vất vả, thiếu thốn về vật chất, thậm chí chết vì sốt rét hơn súng. Tuy vậy, những anh vẫn thể hiện niềm tin sáng sủa anh hùng. Họ mang trong mình sự tươi tắn, mạnh khỏe, hào hoa, lịch sự. Ở họ vừa cháy bỏng với lý tưởng “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ” vừa mang trong mình một mối tình lãng mạn đầy mộng mơ. Nét độc lạ này của người lính “ Tây Tiến ” đã thực sự chạm đến hồn thơ Quang Dũng .Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển công tác làm việc ở đơn vị chức năng khác, trong lúc dự đại hội ở Phù Lưu Chanh, tác giả nhớ lại những kỷ niệm thời kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị chức năng cũ trong những năm tháng ở vùng biên giới Tây Bắc. Những tháng ngày khó khăn nhưng hào hùng ấy đã làm rung động những sợi dây tình cảm trong tâm hồn để nhà thơ viết nên bài “ Tây Tiến ”. Ban đầu bài thơ có tựa đề là “ Nhớ Tây Tiến ” trong tập thơ “ Tháng Năm Ơi ”.5. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 5- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947+ Nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào+ Địa bàn hoạt động rộng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nứa+ Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước- Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởng- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh Hà Tây- Bài thơ ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, in trong tập “Mây đầu ô”6. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến mẫu 6+ “Tây tiến” lên tên một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, hoạt động chủ yếu ở vùng núi Tây bắc sang Thượng Lào, nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào và tiêu hao lực lượng của Pháp. Đội quân Tây tiến phần đông là học sinh, sinh viên, tri thức yêu nước còn rất trẻ.+ Bài thơ được Quang Dũng viết rất nhanh trong nỗi nhớ dâng trào về Tây tiến nên lúc đầu bài thơ có nhan đề Nhớ Tây tiến. Bài thơ được toàn quan nhiệt liệt hoan nghênh và truyền miệng rộng rã+ Bài thơ là nỗi nhớ Tây tiến của Quang Dũng, Quang Dũng nhớ về đơn vị bộ đội đóng sát biên giới Việt Lào và những ngày đấu tranh thiếu thốn, vất vả, hiểm Mở bài và Kết bài phân tích Tây Tiế- Tây Tiến là tên gọi của trung đoàn Tây Tiến, được thành lập năm 1947+ Nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào+ Địa bàn hoạt động rộng Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nứa+ Lính Tây Tiến chủ yếu là người Hà Nội, trẻ trung, yêu nước- Năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến, là đại đội trưởngMở bài phân tích Tây TiếnMở bài phân tích bài thơ Tây Tiến mẫu 1Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Quang Dũng - một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính Tây Tiến vừa lãng mạn, lạc quan lại vừa bi tráng, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác về người chiến sĩ trong thời bài phân tích bài thơ Tây Tiến mẫu 2Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian và gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng mãi sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà thơ Quang Dũng cùng hình ảnh người lính Tây Tiến vừa lãng mạn, lạc quan lại vừa bi bài phân tích Tây TiếnKết bài phân tích Tây Tiến mẫu 1Thông qua sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và nhãn quan hiện thực, bài thơ Tây Tiến đã tái hiện thành công bức tranh thiên nhiên và con người trong sự phong phú, đa chiều. Sự độc đáo trong cách khám phá hình tượng người lính đã làm nên những vần thơ đậm màu kiêu bạc, đồng thời tạo nên nét đẹp riêng cùng sức sống của bài thơ trong muôn ngàn tác phẩm thơ viết về đề tài người lính, đề tài chiến bài phân tích Tây Tiến mẫu 2Bài thơ đã tái hiện thành công dòng suy tưởng và hồi ức ngập tràn nỗi nhớ, kỉ niệm của nhà thơ về hành trình chiến đấu gian khổ nhưng ngập tràn tinh thần lạc quan cách mạng của binh đoàn Tây Tiến giữa muôn vàn khó khăn của cuộc chiến. Dưới ngòi bút tài hoa và giàu chất lãng mạn của Quang Dũng, chúng ta có thể thấy được niềm kiêu hãnh, bất chấp mọi gian khổ, hi sinh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” của những người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Dàn ý phân tích bài thơ Tây Tiến1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Thân bàia. Khổ thơ đầu“nhớ chơi vơi” trơ trọi, cô độc, mỗi nhớ vô định luôn thường biểu cảm “ơi” + từ láy chơi vơi âm hưởng tha thiết, ngân vang mãi trong lòng người.→ Nỗi nhớ da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm cả không gian và thời gian.“Sài Khao, Mường Lát” là những địa danh mà binh đoàn đặt chân qua gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ → không gian thơ mộng, trữ tình.“khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở, gian nan của thiên nhiên.“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và độ sâu của dốc, vắng lặng, hoang vu."ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” diễn tả độ gập ghềnh, trắc trở của rừng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua.“Pha Luông, mưa xa khơi” đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của người lính Tây Tiến là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng. → Đây là món quà xứng đáng cho những nỗi lực của người chiến khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông ra đi của những người đồng đội là niềm đau xót cho những người ở lại.→ Những con người dạt dào tình chiến sĩ ngày đêm đối mặt với nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước sự hài hước, dí dỏm các chiến sĩ coi những nguy hiểm đó là chỉ là những tiếng gầm thét, những sự “trêu người” bên chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu những ngày mùa, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi và cả những cô gái nơi Khổ thơ 2“kìa em” vừa ngạc nhiên vừa say mê, vui sướng.“man điệu” những cô gái với bộ xiêm y lộng lẫy nhảy múa hát ca đậm chất văn hóa xứ sở.“nàng e ấp” vừa e thẹn vừa tình tứ, làm duyên trong đêm liên hoan ngập tràn tiếng hát, tiếng nhạc.→ Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn ngoài những lúc chiến đấu, hành quân vất vả, những người lính Tây Tiến hòa nhập cùng cuộc sống của người dân nơi họ đi qua, hết mình với những cuộc vui.“chiều sương ấy, nẻo bến bờ” buổi chiều sương giăng trên sông nước, bến bờ hư ảo, hoang vu. → Nhớ nhung da diết.“hoa đong đưa” làm duyên, tình tứ trên sông nước như con người.→ Nỗi nhớ nhung, vấn vương, quyến luyến của người ra đi và người ở Khổ thơ 3Căn bệnh sốt rét rừng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây và rụng hết tóc. Tuy nhiên họ vẫn làm chủ tình thế, vẫn oai phong lẫm liệt. Chính màu xanh đó cũng giúp họ ngụy trang để chiến đấu với quân thù.“giữ oai hùm” hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt như thế nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, vẫn giữ nguyên được vẻ oai phong lẫm liệt.“mắt trừng” lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ là sự khát khao giành chiến thắng, gửi những giấc mộng đẹp, những ước mơ đẹp về nơi quê hương yêu dấu của tim rạo rực yêu thương tuy chiến đấu gian khổ nhưng những người lính vẫn luôn nhớ về quê nhà, về nơi có người con gái mà họ yêu thương, nhớ nhung. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm nỗi nhớ vào giấc thẳng vào sự thật tàn khốc nhiều người lính đã ngã là những người lính trẻ tuổi, cuộc đời còn dài tuy nhiên họ đã quyết định ra đi, hi sinh tương lai, tuổi xuân của mình vì độc lập tự do của tổ người chiến sĩ hi sinh, họ chỉ được bọc trong manh chiếu rách để chôn cất nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào → thể hiện sự tôn ra đi đó làm cả núi sông, đất trời lên tiếng như một lời tiễn biệt đồng thời thể hiện sự phẫn nỗ, căm hờn trước tội ác của kẻ thù.→ Sự hi sinh vì lí tưởng cao đẹp của người lính đáng tự hào, tôn vinh. Họ mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, hào hùng, lẫm Khổ thơ cuối“không hẹn ước” ra đi không hẹn ngày trở về, thể hiện sự quyết tâm của người chiến sĩ.“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” dành cả trái tim cho miền đất Tây Bắc.→ Hồi tưởng của tác giả về ngày ra đi, trong lòng hừng hực khí thế chiến đấu và tình cảm tha thiết, gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Kết bàiKhẳng định lại giá trị của bài thơ Tây bài lớp 12 Tây TiếnSơ đồ tư duy Tây TiếnPhân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang DũngCảm nhận bài thơ Tây Tiến - Đất NướcPhân tích bài thơ Tây Tiến của Quang DũngTrên đây đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến. Chắc hẳn thông qua tài liệu này, các bạn học sinh cũng có cho mình những thông tin cần thiết về bài thơ, bên cạnh đó có thể học hỏi cách trình bày cũng như ý tưởng khi trình bày hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Hy vọng đây là tài liệu hữu ích giúp các em ôn thi môn Ngữ văn tốt có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Văn Đề bài Phân tích khổ 2 bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Dàn ý Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến I. Mở bài – Giới thiệu đôi nét về tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến – Khổ 2 Tây Tiến thể hiện một thế giới lãng mạn và trữ tình ở vùng Tây Bắc với những kỉ niệm đẹp. – Trích thơ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa …… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” II. Thân bài * Tổng – Sơ lược về đoàn quân Tây Tiến – Đôi nét về tác phẩm Tây Tiến * Phân tích – Hai câu thơ đầu + “Doanh trại” nơi sống và làm việc của bộ đội, khô khan, nghiêm khắc + Động từ “bừng” ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ + “Hội đuốc hoa” mang màu sắc tình yêu từ chữ Hán có nghĩa là hoa chúc vừa duyên dáng, vừa rạng rỡ + “Kìa em” Ngỡ ngàng, kinh ngạc, trìu mến + “Xiêm áo” Trang phục đẹp đẽ, xinh xắn – Hai câu thơ sau + “Khèn” nhạc cụ mang bản sắc riêng của Tây Bắc + “Man điệu” điệu nhạc, điệu múa mang âm hưởng Tây Bắc + “E ấp” sự ngại ngùng, thẹn thùng của các thiếu nữ dân tộc + “Xây hồn thơ” vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của tâm hồn người chiến sĩ – Bốn câu thơ tiếp theo + Chiều sương” hình ảnh lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài + “Ấy” đại từ khiến hình ảnh buổi chiều sương trở nên đặc biệt + “Hồn lau” Tả dáng lau qua màn sương, đồng thời đem lại linh hồn cho cây cỏ + “Nẻo bến bờ” Nẻo- hướng đi, lối đi. Đi đâu cũng thấy mênh mông, bao la + Điệp ngữ “Có thấy-có nhớ” thể hiện nỗi lưu luyến, nhớ nhung da diết + “Dáng người trên độc mộc” Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. + “Dòng nước lũ – hoa đong đưa” Hình ảnh tưởng chừng đối lập mà hài hòa nên thơ → Bút pháp gợi mà không tả * Hợp – Ngòi bút tài hoa,tinh tế nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng – Tình cảm của tác giả dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cùng với các kỉ niệm đẹp. III. Kết bài – Suy nghĩ, tình cảm của em Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 1 Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta bình giảng là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” “Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn. Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan “Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lăm vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ. Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ”hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có nghĩa là nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy. “Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn của mùa thu đi Ngàn lau xao xác trắng” Chế Lan Viên Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà… Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ”dồi lên dập xuống” mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa… Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị. Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 2 “Tổ Quốc ta bao giờ đẹp thế này chăng?” Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng thốt lên khi ông cảm nhận được vẻ đẹp của đất nước ta. Vẻ đẹp ở đây không chỉ ở những cánh đồng lúa mênh mông, bát ngát hay những bờ biển rì rào cát trắng mà nó còn ở trong chính con người Việt Nam ta. Cùng đề tài ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa tài tình vẻ đẹp vùng núi Tây Bắc và phẩm chất của những người lính qua tác phẩm “Tây Tiến”. Ông sáng tác bài thơ vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh sau khi ông rời đơn vị cũ. Quang Dũng gửi gắm mọi tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ da diết của mình vào Tây Tiến, nổi bật hơn hết là những kỉ niệm đẹp cùng với hình ảnh đêm hội liên hoan và buổi chiều sương được thể hiện tinh tế qua đoạn thơ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Tây Tiến là tên đoàn quân được thành lập năm 1947, chiến đấu ở vùng Tây Bắc. Đa số là thanh niên tri thức Hà Nội. Ban đầu bài thơ có tên “Nhớ Tây Tiến” nhưng để đảm bảo tính hàm súc cho tác phẩm thì Quang Dũng đã đổi tên thành “Tây Tiến”. Dấu ấn hội họa và âm nhạc được tác giả thể hiện nổi bật ở những kỉ niệm đẹp và buổi chia ly trong miền nhớ của ông Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh doanh trại lung linh, tưng bừng, vui như đi trẩy hội. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ” Thông thường khi nhắc đến “doanh trại” thì ta sẽ nghĩ đến không khí nghiêm túc, khô khan của các anh chiến sĩ, bộ đội. Nhưng không, trong thơ Quang Dũng hình ảnh doanh trại hiện lên cùng với hội đuốc hoa cùng với động từ “bừng” tạo nên không khí vui tươi, sôi động. Ở đây các anh chiến sĩ được thoải mái, thư giãn sau những chặng đường hành quân khó khăn, mệt mỏi. Động từ “bừng” như làm rực sáng cả câu thơ, như ánh sáng tỏa sáng rực rỡ, mạnh mẽ khắp doanh trại. Cụm từ cảm thán ” kìa em” vang lên với sự ngỡ ngàng, kinh ngạc đồng thời lại đầy cảm xúc dạt dào, trìu mến. Các cô gái Tây Bắc với xiêm y lộng lẫy, đẹp đẽ bước ra mang đến hương sắc ngọt ngào, nhẹ nhàng tạo cho doanh trại một không khí đầy tươi vui, hạnh đêm hội tràn ngập ánh sáng, chan hòa âm nhạc và vũ điệu, thắm thiết tình quân dân Tiếp đến hai câu thơ sau mang đến bản sắc dân tộc vùng Tây Bắc “Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại nhạc cụ này trong các dịp lễ hội và các chàng trai, cô gái thì múa hoặc hát theo tiếng nhạc ấy. Tác giả đã đem vào thơ ca hình ảnh nét đẹp văn hóa truyền thống dân tộc ở Tây Bắc. “Man điệu” ở đây chỉ điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc xứ này. Tính từ “e ấp” thể hiện sự thẹn thùng, ngại ngùng của các cô thiếu nữ dân tộc đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng của các cô gái. Tiếng nhạc hòa cùng các điệu múa nhẹ nhàng, uyển chuyển của các cô gái làm lay động, say mê các chàng thanh niên tri thức Hà Nội. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng đường đầy khó khăn cùng với ý chí “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của mỗi người chiến sĩ. Trong không khí ấy, tâm hồn của người chiến sĩ hướng “về Viên Chăn xây hồn thơ”. Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa và hồn thơ lãng mạng của Quang Dũng. Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh buổi chiều chia ly ở Tây Bắc, vừa tả thực vừa tả mộng tạo nên không gian huyền ảo, mộng mơ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ” Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở đầu bài. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra, không còn mạnh mẽ, khúc khuỷu, thăm thẳm mà lại chuyển sang nên thơ, mơ mộng hơn. Đặc biệt đại từ “ấy” tạo nên nét độc đáo cho buổi chiều sương, như nhắc lại kỉ niệm những buổi chiều sương đẹp đẽ, lung linh trong miền ký ức. Sương ở đây không phải là sương che lấp, che phủ mà sương thể hiện nỗi buồn man mác, nỗi lưu luyến của người đi Châu Mộc vào buổi chiều sương. Sau này, cùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nên Tố Hữu đã có hai câu thơ ngợi tả cảnh đẹp ở Châu Mộc “Nông trường Châu Mộc như hoa nở Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca” Còn buổi chiều của thơ Quang Dũng, ông miêu tả hình ảnh “hồn lau” tả dáng lau uyển chuyển, mỏng manh qua màn sương, đồng thời như mang đến làn gió thổi vào từng cây cỏ để tạo nên không gian thiên nhiên đầy sức sống, mãnh liệt. Hai câu thơ cuối thể hiện hình ảnh con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ mộng “Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ lả lướt, thướt tha hòa cùng với sự làm duyên của cánh hoa đong đưa theo dòng nước lũ. Điệp ngữ “có nhớ- có thấy” làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ cuốn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn nhưng lại hài hòa, nên pháp gợi mà không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta vào một thế giới hoang sơ, cổ tích Với ngòi bút hào hoa, tinh tế không kém phần thơ mộng và đầy lãng mạng, Quang Dũng đã phác họa nên bức tranh những kỉ niệm đẹp đầy lung linh, huyền ảo và hình ảnh buổi chiều sương mang đậm sự lưu luyến, nhớ nhung da diết. Chất họa và nhạc trong thơ ca Quang Dũng được bộc lộ hết ở khổ thơ trên. Tây Tiến quả là tác phẩm để đời của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ vừa mang tính cách mạng lại còn đậm nét trữ tình nghệ thuật. Mang đến cho người đọc một thế giới khác của Tây Bắc, lung linh hơn, thơ mộng hơn đồng thời như cuốn nhật ký ghi lại những kỉ niệm đẹp nơi đây, chứa mãi trong miền ký ức, trong tim của tác giả. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 3 Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh Hà Tây cũ, ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”. Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa … Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”3096. Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng người, vật từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hao trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt. Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”. “Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút “Sương đầu núi buổi chiều như dội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…” Chinh phụ ngâm Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau “Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng”. Lau mùa thu – Chế Lan Viên Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc. Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế. Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 4 Trong vườn hoa của thơ ca kháng chiến chống Pháp, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – nở ra từ một tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu, hào hoa, một ngòi bút tinh tế và lãng mạn – được coi là bông hoa đầu mùa vừa đẹp vừa lạ. Bài thơ không chỉ khắc họa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở hay những gian khó trập trùng nơi núi cao vực sâu mà bên cạnh đó, ta cũng có cơ hội được cảm nhận bức tranh thiên nhiên gợi cảm, nên thơ cùng những giờ phút liên hoan tưng bừng, lãng mạn giữa những tháng năm khói lửa hào hùng. Và 8 câu thơ ở khổ thơ thứ hai là những vần thơ đã khắc họa rõ nhất vẻ đẹp lãng mạn ấy. Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc sẽ được hòa mình vào không gian tưng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ” Chữ “bừng” như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng “kìa em”. Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung, tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn. “Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Là một người nghệ sĩ đa tài, không chỉ làm thơ mà Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ tranh,… chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống động hơn bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh lửa bập bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện lên thật hữu hình trước mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà hoà theo không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng mạn buổi liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung, hào hoa của những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có những giờ phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm nổi bật tình quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến sĩ trên chiến trường gian lao, khói lửa. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ Có thấy dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Thì ra không chỉ có những “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, hay “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đỗi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ “ấy” càng làm cho khoảng thời gian trở nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký ức của nhà thơ. Hình ảnh “lau” hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ, mà là “hồn lau”, dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính từ “đong đưa” gợi lên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng. Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử của nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”. 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 5 Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mỹ lệ nơi đoàn binh Tây Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang Dũng rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng những tháng năm gắn bó với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những cảm xúc chân thật, tự nhiên, mãnh liệt, dâng trào. Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn, tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ của người nghệ sĩ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người lính mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy chất thơ cùng nhân dân trên những nẻo đường hành quân. Không có chất nghệ sĩ bẩm sinh của chàng trai đất Thăng Long nghìn năm văn hiến sẽ không có những giờ phút thăng hoa theo tiếng khèn, theo những vũ điệu của đêm hội đuốc hoa. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện ở tâm hồn mộng mơ, đa tình khi đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ mà nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn. Đâu chỉ là ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, mà đó là sự bừng sáng trong tâm hồn, đó là niềm vui rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại là cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng” còn là bừng thức cả một vùng kỷ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm liên hoan văn nghệ trở thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết là những bó lửa đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan. “Đuốc hoa” là hình ảnh đẹp vừa tươi sáng, rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền thơ mộng, đó là cái tình, cái ý của những chàng trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từ hán còn là hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm, rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp mặt. Quả là một sự liên tưởng táo bạo, thú vị và đầy bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc, vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những đêm hội trai gái mở hội lòng. Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên“ Kìa em xiêm áo tự bao giờ” “Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con gái vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại. Từ “kìa” bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn đam mê ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người lính đã được thể hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ mà sống động như thực tại chứng tỏ những kí ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một chút phai nhạt. “Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái dìu dặt khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối thanh điệu tài tình với thanh bằng là chủ yếu. Nhưng đó còn là một thứ nhạc đặc biệt khác ở ngoài lời, là nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến người lính thành thi sĩ, còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi sĩ hào hoa đó là những sơn nữ vùng sơn cước duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến rũ gọi mời. Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu là vì hoàn cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự là nghệ sĩ. Anh hùng mà nghệ sĩ , gian khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét cơ bản trong tính cách con người Việt Nam mà những chàng trai Hà Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn ngập trong hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng xao xuyến và những rung động đầy chất thơ. Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc đầy chất thơ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Chất nhạc, chất họa như được nhân lên trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh Châu Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, có những khung cảnh cực kỳ dữ dội, vất vả, có những cảnh thật thơ mộng trữ tình. Có những buổi chiều oai linh thác gầm thét, có những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng có những Châu Mộc chiều sương đẹp bảng lảng, mơ hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian thời gian cụ thể. Thời gian là “chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao sum họp. Độc đáo trong câu thơ là đại từ “ấy”, một từ vô danh về ngữ pháp nhưng hữu tình về ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy” để ghi lại thời khắc đáng nhớ “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” Hay trong thơ Thế Lữ “Buổi ấy lòng ta nghe tiếng bạn Ngàn năm chưa dễ đã ai quên” Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa vắng bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra rõ ràng, không lẫn vào muôn buổi chiều vô danh khác của loài người. Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới” của nhà thơ Chế Lan Viên “Ai lên biên giới cho lòng ta theo với Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi Suốt một đời cùng với gió giao tranh” Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ Quang Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang Dũng viết “hồn lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả hình sắc, còn “hồn lau” hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau không còn vô tri vô cảm nữa, nó làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc. Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ mà còn trong những hình ảnh duyên dáng đáng yêu của con người“Có nhớ dáng người trên độc mộc” Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên con thuyền độc mộc. Đó là cái dáng của những cô lái đò người Mèo, người Thái, cái dáng mềm mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh có sự hài hòa từ màu sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có nhớ” làm câu thơ càng thêm da diết, bâng khuâng. Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” “Hoa” ở đây trước hết là hiện thực, là hoa rừng vì Tây Bắc là xứ sở của các loài hoa hoa đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo đốt nương xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” vì “đung đưa” chỉ gợi lên chuyển động cơ học, có tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi bao nhiêu tình tứ, gọi mời. Đến cả bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng không vô tình bởi nó được nhìn bằng cặp mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến. Nhưng bước vào thơ ca nói chung, thơ Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời là ẩn dụ cho cái đẹp, cho người con gái. Bóng hoa là bóng người con gái trên thuyền soi xuống dòng nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo, duyên dáng. Như vậy, cái tình tứ của cảnh suy cho cùng là do người ngắm cảnh. Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh Châu Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến mộng mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, trong hiện thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về ngày mai chiến thắng. Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây Tiến” xứng đáng với vị trí là một trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ cách mạng Việt Nam. Gấp lại đoạn thơ đầy chất lãng mạn trữ tình, độc giả cảm nhận được những kỉ niệm thời chiến cũng có lúc không vương khói bụi chiến trường, không thấy bóng dáng của sự khốc liệt, của hiện thực nghiệt ngã. Nhà thơ đã giúp chúng ta hiểu rằng chiến trường đâu chỉ có thiếu thốn, gian khổ với bao mất mát, hy sinh? Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 6 Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm 1921-1988. Là nhà thơ với một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa. Trong thơ Quang Dũng thường kết hợp hiện thực và chất men say lãng mạn tại nên nét độc đáo trong thơ ông. Chính vì vậy ông được mệnh danh là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình Quang Dũng để lại nhiều bài thơ có giá trị trong đó phải kể đến “Tây Tiến”. Bài thơ không chỉ khắc họa thành công bức chân dung người lính Tây Tiến mà còn là vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi vùng núi Tây Bắc được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ….. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”. Nếu như khổ thơ thứ nhất Quang Dũng đưa người đọc đến với những nét vẽ gân guốc của con đường hành quân đầy gian khổ thì đoạn thơ thứ hai này nhà thơ đưa người đọc đến với một mĩ cảm đặc biệt. Đó là những vẻ đẹp mềm mại, tinh tế, tài hoa tạo nên vẻ đẹp nên thơ giữa núi rừng Tây Bắc. Một bức tranh thơ đầy lãng mạn nhưng không kém phần bí ẩn của con người nơi vùng núi Tây Bắc này “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Bốn câu thơ mang đến cho người đọc không khí hội hè rộn ràng vui vẻ, một cái nhìn chiêm ngưỡng, say sưa mà đa tình của người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của người phương xa nơi xứ lạ. Là lễ hội nên thật nhiều ánh sáng bừng lên, lan tỏa “hội đuốc hoa”. Ánh sáng của xiêm áo lộng lẫy sáng bừng lên trong sự bất ngờ, sự ngỡ ngàng của những người lính Tây Tiến “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” “Kìa em” là tiếng reo ẩn chứa cả niềm hạnh phúc của những người lính Tây Tiến khi dáng hình người con gái mềm mại, duyên dáng của miền sơn cước Tây Bắc hiện ra e ấp trong điệu khèn đặc trưng của vùng núi nơi đây. Câu thơ mang theo cả cái nhìn lãng mạn của người lính Tây Tiến trong một hiện thực khắc nghiệt mà người lính vừa trải qua. Ánh sáng nơi doanh trại đã trở thành “hội đuốc hoa”- biểu tượng của hạnh phúc tạo thành niềm vui của đêm giao duyên, của niềm hạnh phúc như dành cho những cặp tình nhân trong đêm tân hôn. Để rồi người con gái “xiêm áo” như bước ra từ huyền thoại ấy trở thành động lực để những người lính Tây Tiến “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Những người lính Tây Tiến hòa mình say sưa cùng, điệu nhảy, âm điệu của những bản nhạc Tây Bắc như dìu dặt tâm hồn những chàng trai Tây Tiến để rồi họ-những chàng trai mới chỉ mười tám đôi mươi của mảnh đất Hà Thành ra đi vì tiếng gọi của non sông đất nước đã mang theo cả giấc mơ với những chân trời chưa tới về một giấc mộng ngọt ngào “xây hồn thơ”. Phải chăng đó chính là giấc mộng của lập chiến công, là cái nhìn vượt qua biên giới, là ước mơ khát vọng cho sự bình yên. Tâm hồn những người lính Tây Tiến như có một phút giây thăng hoa để mọi cảm giác mệt mỏi như đang lùi xa, những vất vả, mất mát và cả sự hi sinh như được đẩy lùi nhường chỗ cho lòng người, cho khát vọng và lí tưởng. Theo như lời Quang Dũng kể lại “Đêm chuẩn bị vượt sông Mã để sang đánh địch ở đồn Mai Hạ, đội vũ trang tuyên truyền Lào-Việt tổ chức liên hoan, uống rượu cần và múa lăm vông”. Những đêm liên hoan như vậy phải chăng đã thăng hoa cho hồn thơ Quang Dũng để tạo nên một nét vẽ mềm mại. Cũng chính nhờ những phút giây như thế mà những người lính Tây Tiến được tiếp thêm sức mạnh để bước tiếp con đường hành quân ở phía trước. Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến. Không chỉ thể hiện vẻ đẹp tình quân dân mà nhà thơ còn thể hiện vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Thời gian và không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại. Thời gian chia tay là một buổi “chiều sương ấy”. Đó là cái chiều sương trong cái nhìn hoài niệm của người trong cuộc, tất cả trở nên thật mờ ảo, như một miền ký ức thẳm sâu vừa nhạt nhòa vừa xa thẳm. Không chỉ vậy chữ “ấy” không xác định, không biết là chiều sương nào và chỉ có người trong cuộc, chỉ có những chàng trai Tây Tiến mới hiểu rõ đó là chiều sương ào và ý nghĩa ra sao trong lòng những chàng trai Hà Thành. Đoạn thơ chỉ phác họa đôi nét vẽ nhưng cũng đủ để đánh thức, gợi cảm nhận trong lòng người đọc “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc” Nhà thơ gợi nhắc bằng những điệp từ “có nhớ”, “có thấy” như để chạm khắc, để hỏi chính mình đầy bâng khuâng, lưu luyến. Cảnh trong thơ tĩnh lặng, buồn nhưng vô cùng thi vị. nỗi lòng của con người như được gửi trong nỗi niềm xốn xao “hồn lau nẻo bến bờ”, những bông lau hai bên ven đường mà đoàn quân Tây Tiến đi qua dường như cũng có hồn, với việc sử dụng biện pháp nhân hóa đã gợi cảm giác mênh mông, xa vắng. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu, có thể trong buổi chia tay ấy tâm hồn của những người lính Tây Tiến như nhuốm lên cảnh vật, gieo hồn mình vào những bông lau. Cũng có thể hiểu theo cách khác, cả cuộc đời người lính Tây Tiến luôn gắn liền với hoa lau Tây Bắc nay rời xa nỗi nhớ trở nên bâng khuâng và lưu luyến. Không gian nên thơ ấy như làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện. Đây là vẻ đẹp đặc trưng trong thơ ca hiện đại, con người luôn là điểm hội tụ của bức tranh thơ “Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Đây là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái trên con thuyền độc mộc đang chèo thuyền vượt qua sông. Nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận một hình ảnh khác, đó chính là sự kiêu dũng của những chàng trai Tây Tiến đang chèo đò vượt thác tiến về phía trước chiến đấu với kẻ thù. Đến với câu thơ cuối người đọc ấn tượng với sự đối lập “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Đó là sự đối lập giữa một bên là “dòng nước lũ” như muốn cuộn xoáy, cuốn trôi trong cái dữ dội, cuộn trào của thiên nhiên còn một bên là cành hoa mềm mại đang đong đưa “hoa đong đưa”. Tạo cảm giác thiên nhiên như đang hòa hợp với con người, hòa trong cảm xúc của con người. Không phải là cánh hoa trôi nổi trước dòng nước lũ mà đó là cảm giác như cánh hoa đang làm duyên, đong đưa theo chiều gió. Dáng hoa ấy như hòa cùng trong dáng người trên con thuyền độc mộc làm nên một bức hoa thật lãng mạn nhưng không kém phần hào hùng. Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nội dung mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ. Đoạn thơ trên trong bài thơ Tây Tiến mang đến cho người đọc xúc cảm bâng khuâng, những dòng thơ mềm mại trong không gian lãng mạn hòa cùng nỗi nhớ của những con người lạc quan, lãng mạn và hào hoa. Hình ảnh ấy sẽ đọng lại trong tâm trí người đọc mọi thế hệ như một điểm sáng về những người lính trong kháng chiến chống Pháp được Quang Dũng thể hiện chân thực đầy xúc cảm. Phân tích đoạn 2 bài thơ Tây tiến – mẫu 7 Thơ ca muôn đời nay luôn là tiếng lòng của người nghệ sĩ, là cây đàn muôn điệu đa bậc nhiều cung cảm xúc khác nhau. Thơ ca cũng là cầu nối giữa trái tim đến với trái tim, đi tìm chân trời của một người đến chân trời của triệu người. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng đã thực sự trở thành tiếng nói tri âm của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ ta ấn tượng sâu sắc về những kỉ niệm và nỗi nhớ qua đó tác giả thể hiện sinh động vẻ đẹp lãng mạn hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến. Bốn câu thơ đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về viên chăn xây hồn thơ” Câu thơ đầu tựa như một tiếng reo vui. Đây là lần thứ hai, “lửa” và “đuốc” được liên tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo mà thấy như “hoa về trong đêm hơi” thì lần này trong đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây . Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi bóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ “bừng lên” như một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng chói lóa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tối tăm, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của những anh chiến sĩ là do phản chiếu của ánh lửa, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các cô thiếu nữ miền sơn cước “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Từ “kìa” và từ nghi vấn “tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, với ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ,… “Man điệu” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang sơ, vừa bí ẩn, vừa mới mẻ lạ lủng làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu, bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây “hồn thơ”. Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, những hoài niệm bỗng lắng lại thật sâu ở một buổi chiều sương mộc “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Những nét vẽ mềm mại, tinh tế đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bến nách, hơi sương giăng mờ mờ ảo ảo cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và cánh hoa trôi trong dòng nước lũ. “Chiều sương” gói trọn không gian phủ một lớp u buồn phảng phất lên cảnh vật. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” làm cho âm điệu câu thơ trĩu nặng xuống như một nốt nhấn, như một sự nhắc nhở trong hoài niệm những bâng khuâng. Chịu sự tác động của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động trên những bến bờ dường như cũng có hồn hơn. Nếu từ láy “đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh “hoa đong đưa” không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ “Quang Dũng. Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến đã được Quang Dũng thổi hồn vào cái nồng nàn của cảm xúc, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và thanh âm trong trẻo của nhạc tính. Bức tranh ấy chính là nền tuyệt đẹp để người lính Tây Tiến xuất hiện một cách hiên ngang và hùng dũng. Cũng trên cái nền ấy tâm hồn và tài năng của nhà thơ đã được chắp cánh bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật. Gấp trang sách lại mà những vần thơ của Quang Dũng vẫn văng vẳng để rồi những cảm xúc chân thật nhất của nhà thơ gửi gắm mãi neo động trong tâm hồn con người trở thành một nỗi niềm chung. ✅ Văn mẫu lớp 12 ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐ Sinônimo de quão 4 sinônimos de quão para 2 sentidos da palavra quão Use a nossa Inteligência Artificial Escreva textos incríveis em segundos com nossa nova ferramenta de Inteligência Artificial. Reescrever meu texto agora 3 Não encontrou o sinônimo que procurava? Escreva abaixo uma frase ou um pequeno texto usando "quão", nós vamos reescrevê-la com novos sinônimos. Use a nossa Inteligência Artificial Escreva textos incríveis em segundos com nossa nova ferramenta de Inteligência Artificial. Reescrever meu texto agora "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" Nếu như ở trong 14 câu thơ đầu của bài thơ Tấy Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã đưa chúng ta ngược trở về quá khứ với những miền nhớ thương, nỗi nhớ thương những kỷ niệm gắn liền với những người đồng chí, đồng đội của mình trên những chặng đường hành quân gian khổ, nỗi nhớ thương gửi về khung cành của núi rừng Tây Bắc hùng thiêng, nơi những dẻo cao đầy sương trắng thì ở 8 câu thơ tiếp theo này, cuốn phim lại chiếu cho chúng ta những kỷ niệm tuyệt vời mà người lính Tây Tiến trải qua, một đêm liên hoan văn nghệ cùng đồng bào dân tộc Tây Bắc. “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” Ký ức quay ngược trở về với một đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại. Ở câu thơ này, từ “bừng” được coi là nhãn tự của câu thơ. Bởi chỉ một từ này xuất hiện, mà khiến cho cả khoảng không gian tối đen của đại ngàn Tây Bắc tràn ngập ánh sáng ấm áp, ánh sáng của ngọn lửa, ánh sáng xua đi giá lạnh, xua đi những mệt nhọc vất vả, động từ này được sử dụng mở ra một không gian ánh sáng cho cả câu thơ. Thắp lên trong trái tim của những người chiến sĩ những ngọn lửa hồng, ấm áp. Dưới cs nhìn lãng mạn của thi nhân, ngọn đuốc trông giống như hình bông hoa nở, nên tác giải dí dỏm gọi đó là “đuốc hoa”, từ ngữ này cũng gợi ra sự trang trọng, cổ kính. Cả doanh trại bừng sáng bởi ánh lửa bập bùng, ánh sáng soi chiếu rõ những khuôn mặt của những người lính, và của cả những cô sơn nữ xinh đẹp để rồi nhà thơ thốt lên “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” Ánh mắt của nhân vật trữ tình bây giờ đang hướng về những người con gái của vùng núi cao Tây Bắc với ánh nhìn ngỡ ngàng, ngạc nhiên đến bất ngờ. Dường như có một khoảng dừng ở trong câu thơ này. “Kìa em” là một tiếng reo đầy ngạc nhiên, thảng thốt và vui sướng. Trước mắt họ bây giờ, trong ánh lửa bập bùng của đêm liên hoan văn nghệ, là hình ảnh của những cô gái Thái, cô gái Lào với những bộ trang phục dân tộc rực rỡ sắc màu, đẹp lung linh. Bom đạn của chiến tranh trong khoảnh khắc này dường như đã biến mất từ bao giờ trong tâm trí của những người lính, chỉ còn lại ở nơi đây, là ánh sáng, là niềm vui, là tình yêu trong một không gian âm nhạc núi rừng đầy thơ mộng “ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” Không gian của âm nhạc đã dẫn lối những người lính đến những miền đất lạ. Cả đất trời đang nghiêng ngả theo men say của tiếng khèn, của những điệu múa dân tộc mà những cô sơn nữ xinh đẹp thể hiện trong bộ cánh rực rỡ. Ánh sáng, âm nhạc, tình yêu dẫn lối những người chiến sĩ lạc vào những miền đất xa xôi, để những tình cảm ấy nhanh chóng thành vẫn thành điệu, cất lên những lời thơ. Rũ bỏ những mệt nhọc, những gian khổ và hy sinh nơi chiến trường đầy bom đạn, trong giây phút này, những chiến sĩ đã trở thành thi sĩ, để hòa mình vào đêm liên hoan văn nghệ với những niềm vui hiếm hoi. Có thể thấy rằng, bom đạn của kẻ thù chẳng thể nào khiến cho con người ta sợ hãi, con người ta hoàn toàn có thể gạt nỗi sợ hãi đó sang một bên, dành khoảng thời gian cho tâm hồn vui vẻ trở lại, để thêm quyết tâm chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Kỷ niệm về đêm liên hoan văn nghệ đốt lửa trại đã giúp cho những người đọc cảm nhận được chất thi sĩ trong những tâm hồn chiến sĩ.

kìa em xiêm áo tự bao giờ